chuột chạy cùng sào
Táo Chí Trung, Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm #shorts liên tục cập nhật những chương trình giải trí hot nhất hiện nay
Câu thành ngữ nào nói về sự tự tin? A. Có cứng mới đứng đầu gió. B. Áo gấm đi đêm. C. Chuột chạy cùng sào. D. Ngựa quen đường cũ.
Chuột: Loài động vật nhỏ bé, luôn luôn sống nơi tối tăm. Sào: là hang ổ là nơi ẩn trốn, nơi sống của một con gì đó. Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào có nghĩa là đường cùng không có chỗ trốn và phải bị bắt.
Ứng dụng Máy tính sẽ khởi chạy ngay lập tức. Bạn cũng có thể mở Máy tính bằng cách thực hiện lệnh calc trong cửa sổ Dấu nhắc lệnh. Với Windows 10, bạn có thể nhấn Windows + sẽ Để mở giao diện tìm kiếm, hãy nhập Tính toán Sau đó nhấn Enter.
Kết thúc truyện, nhân vật Xiu đã nói với Giôn-xi: “Ồ, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men, - cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm chiếc lá cuối cùng đã rụng.”, em lý giải vì sao có thể nói chiếc lá cụ Bơ-men vẽ là một kiệt tác.
Wie Kann Ich Mich Selbst Kennenlernen.
Nhiều người thắc mắc Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào có nghĩa là gì? bài viết hôm nay sẽ giải đáp điều này Thành ngữ liên quan ăn chay nằm đất có nghĩa là gì? một duyên hai nợ có nghĩa là gì? nói như đấm vào tai có nghĩa là gì? Nội dung thu gọn1 Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào có nghĩa là gì? chuột chạy cùng sào có nghĩa là gì? Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng Thành ngữ đồng nghĩa Chuyển thế thành ngữ sang tiếng nước ngoài Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào có nghĩa là gì? chuột chạy cùng sào có nghĩa là gì? Chuột Loài động vật nhỏ bé, luôn luôn sống nơi tối tăm Sào là hang ổ là nơi ẩn trốn, nơi sống của một con gì đó. Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào Ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sào có nghĩa là đường cùng không có chỗ trốn và phải bị bắt. Không như chuột chạy cùng sào thành ngữ lên thác xuống ghềnh chỉ ra sự cố gắng vượt qua khó khăn trong cuộc sống hoặc thuận vợ thuận chồng nói đến tình yêu thương gắn bó giữa vợ chồng cố gắng vượt qua mà không có gì cản trở họ. Thành ngữ đồng nghĩa Chó chạy bờ ao Chuyển thế thành ngữ sang tiếng nước ngoài Tiếng Anh Be at the end of one’s tether Tiếng Trung 在其一端的山穷水尽的地步 Tiếng Nhật 1のテザーの終わりであること Tiếng Hàn 하나의 테더의 끝에되기 Qua bài viết ý nghĩa thành ngữ chuột chạy cùng sao có nghĩa là gì của chúng tôi có giúp ích được gì cho các bạn không, cảm ơn đã theo dõi bài viết. Từ khóa liên quan chuột chạy cùng sào nghĩa là gì ý nghĩa câu chuột chạy cùng sào đặt câu với thành ngữ chuột chạy cùng sào chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm là gì thành ngữ chuột chạy cùng sào About admin Bài viết được chúng tôi tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau từ mơ thấy tiền bạc, nhẫn vàng, vòng vàng, vay nợ ngân hàng, cho đến các loại bệnh như cảm cúm, ung thư, đau nhức xương khớp nói riêng hay các loại bệnh gây ảnh hưởng sức khỏe nói chung như bệnh trĩ nội - trĩ ngoại, viêm loét tiêu hóa, bệnh đau đầu - thần kinh. Những giấc mơ - chiêm bao thấy bác sĩ - phòng khám bác sĩ hay phẫu thuật..... Bài viết thuộc bản quyền của CHIÊM BAO 69 và không hề trao đổi - mua bán nội dung gì với các website khác, hiện nay các website giả mạo cào lấy nội dung của Chiêm bao 69 Chiembao69 để phục vụ tư lợi cho bản thân rất nhiều, xin cảm ơn đã theo dõi và đồng hành cùng Chiêm Bao 69. Check Also Đồng nghĩa – Trái nghĩa với từ optimistic là gì? Nhiều người thắc mắc Đồng nghĩa – Trái nghĩa với từ optimistic là gì? Bài …
Ý nghĩa của thành ngữ "chuột chạy cùng sào" Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành. Định nghĩa - Khái niệm chuột chạy cùng sào có ý nghĩa là gì? Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu chuột chạy cùng sào trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ chuột chạy cùng sào trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ chuột chạy cùng sào nghĩa là gì. Rơi vào bước đường cùng không có lối thoát. Thuật ngữ liên quan tới chuột chạy cùng sào rừng thiêng nước độc là gì? đá gà, đá vịt là gì? căm gan ngứa tiết là gì? sợ run như dẽ là gì? tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ là gì? nhịn đói nằm co, hơn ăn no phải làm là gì? ăn không ngồi rồi là gì? thành ư quả quyết, bại ư do dự là gì? nước lã mà vã lên hồ là gì? quan san nghìn dặm là gì? phú bất nhân, bần bất nghĩa là gì? đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm là gì? bốn bể năm châu là gì? đi cày mỏi gối, đi cuốc đau tay là gì? giết người không dao là gì? Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "chuột chạy cùng sào" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt chuột chạy cùng sào có nghĩa là Rơi vào bước đường cùng không có lối thoát. Đây là cách dùng câu chuột chạy cùng sào. Thực chất, "chuột chạy cùng sào" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2023. Kết luận Hôm nay bạn đã học được thành ngữ chuột chạy cùng sào là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.
Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm Cùng thể loại Ăn xó mó niêu Ăn xó mó niêu Đế quốc Mỹ Tội ác không dung, đồ dùng rất tốt Đế quốc Mỹ Tội ác không dung, đồ dùng rất tốt Nói thả nói ví Nói thả nói ví Làm như khách chìm tàu Làm như khách chìm tàu Chỗ ăn không hết, chỗ thết không khẳm Chỗ ăn không hết, chỗ thết không khẳm Nói vuốt đuôi lươn Nói vuốt đuôi lươn Nói xuôi nghe được nói ngược dễ nghe Nói xuôi nghe được Nói ngược dễ nghe Giòi trong xương giòi ra Giòi trong xương giòi ra Răng đi trước, môi lả lướt theo sau Răng đi trước, môi lả lướt theo sau Người còn ở Cầu Rào, răng đã vào Cầu Đất Người còn ở Cầu Rào, răng đã vào Cầu Đất Có cùng từ khóa Ai về Phú Lộc gửi lời Ai về Phú Lộc gửi lời Thư này một bức nhắn người tri âm Mối tơ chín khúc ruột tằm Khi tháng tháng đợi khi năm năm chờ Vì tình ai lẽ làm lơ Cắm sào quyết chí đợi chờ bến xuân Ước sao chỉ Tấn tơ Tần “Sắc cầm hòa hợp” lựa vần “quan thư” Đôi bên ý hiệp lòng ưa Đắp đền công thiếp lại vừa lòng anh Thiếp thời tần tảo cửi canh Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thì Một mai chúa mở khoa thi Bảng vàng chói lọi có đề tên anh Ba gian nhà khách Ba gian nhà khách Chiếu sạch giường cao Mời các thầy vào Muốn sao được thế Mắm Nghệ lòng giòn Rượu ngon cơm trắng Các thầy dù chẳng sá vào Hãy dừng chân lại em chào cái nao Đêm qua em mới chiêm bao Có năm ông cử bước vào nhà em Cau non bổ, trầu cay têm Đựng trong đĩa sứ em đem kính mời Năm thầy tốt số hơn người Khoa này tất đỗ, nhớ lời em đây Chim quyên xuống đất ăn trùn Chim quyên xuống đất ăn trùn Bởi chưng bới đất nên cùn mỏ đi Cùng nhau một bọn đi thi Kẻ thì đỗ Trạng, người thì về không Cùng nhau một bọn má hồng Kẻ đã có chồng, người vẫn nằm trơ Trạng Me đè trạng Ngọt Trạng Me đè trạng Ngọt Con ăn con ngủ cho no Con ăn con ngủ cho no Con lẫy con bò con chững con đi Ngày sau con học con thi Mẹ mong con đỗ mẹ thì nhờ con Ai đi đợi với tôi cùng Ai đi đợi với tôi cùng Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi Chồng tôi quyết đỗ khoa này Chữ tốt như rắn, văn hay như rồng Bõ khi xắn váy quai cồng Cơm niêu nước lọ đưa chồng đi thi Trai nam nhân thi chữ Trai nam nhân thi chữ Gái thục nữ thi tài Dẫu anh thi rớt ra ngoài có em Có anh thi rớt trở về Có anh thi rớt trở về Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn Sầu riêng anh chẳng buồn ăn, Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường Chàng đi thi, thiếp sợ mơ màng Chàng đi thi, thiếp sợ mơ màng Sợ chàng không đậu, về làng bắt xâu Hai tay bưng chén xôi vò Hai tay bưng chén xôi vò Ăn chay nằm đất cho trò đi thi Niêu Nồi nhỏ bằng đất nung hoặc đồng, có nắp đậy, dùng để nấu nướng hoặc sắc thuốc. Niêu sắc thuốc thì có thêm cái vòi để rót thuốc. Cơm niêu Ăn xó mó niêu Chỉ hạng người hèn mọn, ăn ở chui rúc, bệ rạc. Nói thả nói ví Nói xa nói gần, nói cạnh khóe. Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. Làm như khách chìm tàu Làm xí xô xí xào, làm ra tiếng ồ ào, kêu la inh ỏi, như người Ngô chìm tàu, có nghĩa là làm tâng bầng vỡ lở, dấy tiếng om sòm, rần rần. Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của Nói vuốt đuôi lươn Nói gạt nhau; không giữ lời nói. Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của Giòi trong xương giòi ra Bà con trong nhà hại nhau. Cầu Rào Một cây cầu bắc qua sông Lạch Tray thuộc Hải Phòng . Cầu được xây dựng lần đầu tiên dưới thời Pháp thuộc, thuộc địa phận làng Rào tên nôm của làng An Khê. Cầu Rào hiện nay Cầu Đất Tên một con phố thuộc trung tâm thành phố Hải Phòng hiện nay. Có tên gọi như vậy vì trước đây có một cây cầu nhỏ bằng tre đắp đất gọi là cầu Đất bắc qua một con lạch tại khu vực này. Phú Lộc Một làng nay thuộc xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, có nghề truyền thống là làm hương nhang. Tri âm Bá Nha đời Xuân Thu chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một lần Bá Nha đem đàn ra khảy, nửa chừng đàn đứt dây. Đoán có người rình nghe trộm, Bá Nha sai lục soát, bắt được người đốn củi là Tử Kỳ. Tử Kỳ thanh minh rằng nghe tiếng đàn quá hay nên dừng chân thưởng thức. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, tâm trí nghĩ tới cảnh non cao, Tử Kỳ nói Nga nga hồ, chí tại cao sơn Tiếng đàn cao vút, ấy hồn người ở tại núi cao. Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh nước chảy, Tử Kỳ lại nói Dương dương hồ, chí tại lưu thủy Tiếng đàn khoan nhặt, ấy hồn người tại nơi nước chảy. Bá Nha bèn kết bạn với Tử Kỳ. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn mà rằng "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa." Do tích này, hai chữ tri âm tri biết, âm tiếng được dùng để nói về những người hiểu lòng nhau. Tằm Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao. Tằm đang ăn lá dâu Kén tằm Tấn Tần Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần. Trộm toan kén lứa chọn đôi, Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa. Truyện Hoa Tiên Sắt cầm Đàn sắt và đàn cầm, hai loại đàn của Trung Quốc. Tương truyền, đàn sắt do vua Phục Hy chế ra vào khoảng gần ba nghìn năm trước công nguyên, còn đàn cầm do vua Thuấn chế ra khoảng một nghìn năm sau đó. Đàn sắt và đàn cầm thường được đánh hòa với nhau, vì vậy chữ sắt cầm, duyên cầm sắt được dùng để chỉ tình cảm vợ chồng. Chàng dù nghĩ đến tình xa Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ Truyện Kiều Quan thư Bài thơ mở đầu Kinh Thi. Thật ra những bài thơ trong Kinh Thi đều không có tiêu đề, người biên soạn thường lấy một hai từ đầu của bài thơ để đặt cho dễ nhớ. Riêng ở đây từ “quan thư” có thể hiểu là tiếng “chim thư kêu.” Bốn câu đầu của bài như sau Quan quan thư cưu Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu Hiệp Họp, hợp sum họp, hòa hợp phương ngữ Nam Bộ. Tảo tần Cũng như tần tảo, chỉ người phụ nữ khéo thu vén công việc trong nhà. Tần 苹 là bèo, tảo 藻 là rong, hai thứ rau cỏ mọc dưới nước, người Trung Hoa cổ dùng vào việc cúng tế. Thơ "Thái tần" trong Kinh Thi ca ngợi người vợ biết chu toàn việc cúng tế tổ tiên, viết "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo" Hái bèo ở đâu, bên bờ khe nam. Hái rong ở đâu, bên lạch nước kia. "Tảo tần" còn chỉ sự vất vả cực khổ. Canh cửi Sợi chỉ dọc canh hoặc kinh trên Khung cửi">khung dệt cửi. Chỉ công việc dệt vải, dệt lụa. Dệt cửi Kinh sử Sách vở Nho giáo nói chung. Thời xưa sách vở được phân làm bốn loại kinh kinh điển, sử lịch sử, tử lời của các nhà tư tưởng, tập tuyển tập văn thơ. Từ đâu này đến cuối, có bản chép Một mai chiếm bảng xuân vi Ấy là đề diệp tinh kỳ từ đây Ai ơi nghe thiếp lời này Mắm Nghệ Nước mắm làm ở Nghệ An nổi tiếng với các làng làm nước mắm như Vạn Phần, Hải Đông, Phú Lợi.... Mắm Nghệ không có màu cánh gián như nước mắm Phú Quốc mà có màu sẫm đen, nhưng độ đạm thì rất cao, mùi vị cũng đặc trưng. Cử nhân Học vị cấp cho những người thi đỗ kì thi hương dưới thời phong kiến, trên tú tài. Người có học vị này thường được gọi là ông cử. Đây được cho là mấy câu hát sáo mời mọc sĩ tử của những cô hàng cơm ở Thăng Long ngày xưa mỗi khi ở đây tổ chức kì thi Hương. Các nhà trọ, hàng cơm thường tập trung ở gần trường thi, người trước gọi khu ấy là xóm học trò. Theo Doãn Kế Thiện trong Hà Nội cũ "Xóm học trò ở vào chỗ nào? Cứ xem như tập Long thành tạp thoại thì di chỉ xóm ấy ở vào khoảng đầu vườn hoa Cửa Nam cho tới ngõ Hội Vũ bây giờ." Sĩ tử ăn cơm Đỗ quyên Có giả thuyết cho là chim cuốc. Theo hai học giả Đào Duy Anh và An Chi thì chim quyên là chim tu hú. Hình ảnh chim quyên trong ca dao dân ca thường tượng trưng cho những điều tốt đẹp. Chim tu hú Trạng nguyên Danh hiệu của người đỗ cao nhất khoa thi Đình dưới thời phong kiến. Đỗ nhì là Bảng nhãn, đỗ ba là Thám hoa. Các trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử nước ta có thể kể đến Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh Trạng Lường, Mạc Đĩnh Chi Lưỡng quốc Trạng nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm Trạng Trình... Ngoài ra, một số nhân vật trong lịch sử tuy không đạt danh hiệu này nhưng nhờ có tài năng lớn mà cũng được nhân dân tôn làm Trạng Trạng Ăn Lê Như Hổ, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Trạng Quỳnh... Má hồng Từ chữ hồng nhan cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ, từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp. Phận hồng nhan có mong manh Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương Truyện Kiều Nguyễn Giản Thanh Trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh năm thứ tư 1508, đời vua Lê Uy Mục. Ông người làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn nay là Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng Ông Mặc có tên Nôm là làng Me, nên nhân dân cũng gọi ông là trạng Me. Hứa Tam Tỉnh Người làng Như Nguyệt làng Ngọt, huyện Yên Phong nay thuộc xã Tam Giang huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Bảng nhãn khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 1508 đời vua Lê Uy Mục. Trạng Me đè trạng Ngọt Tương truyền trong khoa thi đình năm Mậu Thìn 1508, Nguyễn Giản Thanh người làng Me vốn đỗ bảng nhãn, còn Hứa Tam Tỉnh người làng Ngọt đỗ trạng nguyên. Khi hai ông vào yết kiến mẹ nuôi nhà vua, bà này lại muốn Nguyễn Giản Thanh đỗ trạng nguyên, vì trông ông khôi ngô tuấn tú hơn. Chiều lòng mẹ, vua cất nhắc ông lên làm trạng, hạ Hứa Tam Tỉnh xuống bậc bảng nhãn, vì thế mà thành câu nói này. Đời sau vì thế cũng gọi Nguyễn Giản Thanh là “mạo trạng nguyên,” tức trạng nguyên nhờ dung mạo. Lẫy Động tác lật người từ nằm ngửa sang nằm sấp của em bé. Cồng Nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm hoặc dùng tay để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Nhân dân ta thường đánh cồng chiêng trong các dịp lễ hội, hoặc khi ra trận để cổ vũ tinh thần quân sĩ. Cồng chiêng Thục nữ Người con gái hiền dịu, nết na từ Hán Việt. Sầu riêng Loại cây ăn quả thường gặp ở Nam Bộ, vỏ dày, có nhiều gai, cơm quả màu vàng nhạt và có mùi rất đặc biệt. Nổi tiếng nhất có lẽ là sầu riêng Cái Mơn, thuộc tỉnh Bến Tre. Tên gọi sầu riêng bắt nguồn từ tiếng Thái-Khmer thurien. Quả sầu riêng Bòn bon Một loại cây cho trái ăn được, mọc nhiều ở các vùng rừng núi Quảng Nam nơi bòn bon còn được gọi là lòn bon. Trái bòn bon còn có hai tên quý phái hơn do vua nhà Nguyễn ban nam trân, tức "trái quý ở phương nam" và trung quân, tương truyền vì trong khi trốn tránh quân Tây Sơn, nhờ có trái bòn bon ăn cứu đói mà nhóm quân phò chúa mới cầm cự được. Ưu ái này còn được biểu hiện qua việc chạm hình bòn bon vào Nhân đỉnh, tức đỉnh thứ nhì trong Cửu Đỉnh ở sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Trước năm 1854 triều đình có đặt quan trông coi việc thu hoạch bòn bon ở thượng nguồn sông Ô Gia, tỉnh Quảng Nam để tiến kinh. Ba huyện Đại Lộc, Quế Sơn và Tiên Phước nay vẫn nổi tiếng là xuất xứ bòn bon ngon và ngọt. Bòn bon Mít tố nữ Một giống mít cho quả có dạng hình trứng dài, nhỏ thường nặng dưới 2kg, vỏ xanh, nhìn hơi giống quả sầu riêng. Mít có múi lớn, màu đậm, ăn rất thơm và ngọt. Mít tố nữ Xâu Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp sưu thế, hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân đi xâu. Xôi vò Xôi nấu rồi trộn đều với đậu xanh chín giã nhỏ. Xôi vò
Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm*Bài đã được đăng ở mục Tuần Việt Nam, báo Vietnamnet, có chỉnh sửa. Ngày xưa, từ thời ba mẹ tôi thi vào sư phạm thì câu nói này đã vô cùng nổi tiếng. “Chuột chạy cùng sào…” là con chuột đói không lối thoát, câu thành ngữ này hàm ý chỉ con người đã lâm vào tình trạng bế tắc, bước đường cùng. “Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm” ý muốn chỉ rằng khi người thí sinh không còn lựa chọn nào khác, mới chọn ngành sư phạm để làm giáo viên. Bởi nghề giáo viên thời đó có thể được xem là nghề tri thức đói rách nhất, nghèo nàn nhất. Có lẽ, ngày đó, phải thực sự yêu nghề mới chọn làm giáo viên. Cách đây gần 30 năm, tôi từng chứng kiến ba mẹ hàng đêm thức khuya đạp máy khâu rầm rầm may đồ ký gửi. Ba dạy đại học, mẹ dạy cấp hai nhưng vẫn phải làm thêm, ngoài may đồ ký gửi còn đi buôn chanh, bán lạc. Ba mẹ tôi chẳng phải là ngoại lệ, thời đó, nhà nào mà có hai người làm giáo viên thì xác định phải làm thêm mới đủ trang trải cho cuộc sống. Thậm chí, ba mẹ tôi từng nghĩ chỉ sinh một đứa con thôi, vì nếu sinh nhiều sẽ không nuôi nổi. Thế rồi, cuộc sống đổi thay, các giáo viên “thoát nghèo” nhờ dạy thêm. Kể cả bây giờ, nếu một người giáo viên nào có thể sống dư dả mà không cần dạy thêm, thì chỉ có thể là vợ/chồng người đó làm nghề khác và tôi chắc chắn, họ chính là trụ cột kinh tế trong nhà. Ấy vậy mà thời nay nghề giáo viên vẫn không phải là nghề “hot” thu hút được đông đảo thí sinh. Thậm chí, thực trạng đáng buồn là có lúc điểm tuyển sinh cho ngành sư phạm lại xuống cực thấp. Lúc này, ý nghĩa của câu “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm…” lại trở thành phải học dốt lắm mới đi làm giáo viên. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, tôi được hỏi tại sao lại chọn ngành Sư phạm. Tôi không hề chuẩn bị cho câu hỏi này, và trước đây cũng chưa từng hỏi tôi câu đó. Sự thực là không phải tôi chọn ngành sư phạm, mà là ba mẹ chọn cho tôi. Lý do đơn giản là nghề này nhàn hạ, và tôi sẽ có nhiều thời gian để chăm sóc gia đình và con cái. Đối với mẹ tôi, vai trò của người phụ nữ là “nội tướng” trong nhà, còn người chồng sẽ lo việc kinh tế. Còn với ba tôi, mẹ tôi nói gì cũng đúng. Không biết, trong hàng ngàn thí sinh nộp hồ sơ vào trường sư phạm hàng năm, bao nhiêu trong số đó là thực sự yêu nghề giáo? Bao nhiêu trong số đó khi ra trường vẫn còn giữ được tâm huyết, nhiệt huyết với nghề, nhất là khi nghề giáo luôn đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tôi nghĩ, một người giáo viên không thể làm tốt công việc của mình nếu như họ không có lòng bao dung, không có sự kiên nhẫn, và trên hết, không có lòng yêu thương con người. Trước vụ việc cô nữ sinh An Giang tự tử, tôi đã vô cùng kinh ngạc trước phản ứng của người giáo viên, trước những lời lẽ thua đủ mà cô giáo đăng trên Facebook. Tôi tự hỏi, khi chọn nghề này, lý do của cô là gì? Cô bảo cô “yêu màu tím”, nhưng tôi không biết liệu giữa yêu màu tím và yêu con người có gì liên quan hay không. Nếu đã không yêu nghề này, tại sao cô lại chọn nó. Không yêu nghề mà phải làm nghề, phải chịu đựng những khó khăn, khắc nghiệt, đòi hỏi của nghề, chẳng khác gì hành hạ bản thân. Mà một khi bản thân đã không thoải mái, thì làm sao có thể tốt với người khác được, nhất là khi đối tượng thụ hưởng từ nghề nghiệp của mình lại là thanh thiếu niên, lứa tuổi với tâm lý phức tạp, tính tình cũng ương ương. Trong bài nói chuyện của cô Rita, cô kể rằng đồng nghiệp của cô nói, nhiệm vụ của họ chỉ là dạy kiến thức cho học sinh, họ không được trả tiền để thích lũ trẻ. Cô Rita đáp rằng, Lũ trẻ sẽ không học từ người mà chúng không thích; và một năm học của cô đồng nghiệp sẽ rất dài…Quả vậy, tôi cảm thấy, dạy học, đặc biệt ở cấp phổ thông, trước hết cần tạo được mối đồng cảm giữa cô và trò. Một khi hai bên đã thấu hiểu nhau thì việc dạy & học sẽ trở nên trôi chảy, dễ dàng. Ngược lại, sẽ là sự mệt mỏi cho cả hai bên. Trở lại cuộc phỏng vấn của tôi, tôi đã thành thật trả lời rằng tôi vào sự phạm là sự lựa chọn của ba mẹ. Và may mắn thay, đó lại là một lựa chọn phù hợp nhất dành cho tôi. Hoá ra công việc này đem lại cho tôi nhiều niềm vui, mỗi khi tôi nhìn thấy được sự thay đổi ở học trò, dù ít hay nhiều. Tôi làm nghề này, trước hết là vì chính tôi, chứ không vì ai khác.
chuột chạy cùng sào